9/22/2024

CÁC ANH HÙNG DÂN TỘC CỦA VÙNG ĐẤT TÂY NGUYÊN


Các anh hùng dân tộc của vùng đất Tây Nguyên

1. Ama Jhao (1840-1905)

Ama Jhao tên thật là Y Yên, họ Ayũn, sinh năm 1840 tại buôn Tung, cách thành phố Buôn Ma Thuột ngày nay 16km về phía đông bắc, (có tài liệu cho là buôn Kô Tăm). Sinh ra trong một gia đình Êđê có uy tín trong vùng, nổi tiếng nhờ tài săn voi cho nên ông được nhiều người yêu quý, kính trọng. Lớn lên, Y Yên lấy cô H’Pang Niê Blô, con tù trưởng Ama Phi buôn Ea Yông (xã Ea Yông, huyện Krong Pak) và sang ở rể bên phía nhà vợ.


Khi bố vợ ông mất, ông được dân làng bầu lên làm Tù trưởng-địa vị được dân làng kính trọng và có thể đại diện cho dân làng trong nhiều trường hợp. Ama Jhao là một tù trưởng giàu có, ngôi nhà của ông rộng 4m, dài 220m, có trong tay 1.000 con trâu, 15 con voi và hàng trăm nô lệ. Uy tín của ông nổi lên mạnh mẽ và lan sang những vùng khác. Tài liệu của Pháp công nhận: “Ama Jhao là một lãnh tụ Rađê lừng lẫy được cả vùng Hinterland cũng như Khánh Hoà, Phú Yên biết đến với một cái tên khá khoa trương: “Vua của người Mọi”.


Ama Jhao sinh trưởng trong thời buổi mà người Pháp bắt đầu xúc tiến những bước đi đầu tiên nhằm thiết lập quyền kiểm soát của mình trên miền Thượng. Những cố gắng thâm nhập vào vùng nam cao nguyên theo lối truyền thống đã tỏ ra bế tắc khi mà năm 1859, hai nhà thờ Tinh Sư và Bralam ở vùng M’nông và Stiêng bị người dân phá huỷ ngay sau khi xây dựng xong. Các cố gắng tiếp theo của người Pháp cử những phái đoàn thám hiểm kèm theo các đơn vị vũ trang từng bước xâm nhập vào sâu trong khu vực người Thượng. Chúng vừa sử dụng bạo lực đàn áp, khủng bố tinh thần người dân, lại vừa phỉnh nịnh, mua chuộc những người tù trưởng, già làng.


Nhận thấy được tầm ảnh hưởng to lớn của Ama Jhao, hết Bourgeois (công sứ đầu tiên của tỉnh Darlac), Yersin (người phát hiện ra cao nguyên Lang Biang năm 1893)… đã tìm mọi cách lôi kéo ông về phía Pháp. Tên Khâm sứ tại Lào là Tournier đến hăm doạ: “Ông rất dễ dàng nhận ra là ông thuộc quyền cai trị của ai. Nếu ông uống nước chảy xuôi phía biển Đông là thuộc quyền của ông lớn người Pháp như tôi bên kia Trường Sơn. Còn nếu ông uống nước chảy về phía Tây thì thuộc quyền cai trị của tôi”. Ama Jhao đã bình tĩnh trả lời rằng: “Tôi biết rõ là các ông muốn gì. Nhưng tôi chỉ uống nước ao”. Những cố gắng kiểu đó của Pháp đã không có hiệu quả, còn về phần mình, Ama Jhao không thể duy trì tình trạng hoà bình được lâu trước dã tâm ngày càng bộc lộ rõ của thực dân Pháp, ông đã chuẩn bị cho khởi nghĩa.


Năm 1889, thực hiện ý đồ xây dựng một con đường nối liền Buôn Ma Thuột với Ninh Hòa (tỉnh Khánh Hoà) (trước là quốc lộ 12, nay là quốc lộ 26, dài 130km), nhà cầm quyền thực dân đã cho thi hành nhiều biện pháp cưỡng chế buộc các bộ tộc Êđê Kpẵ vùng Krông Păk phải di dời làng. Công trình của thực dân đã đụng chạm đến những vùng đất, những khu rừng, khe suối thiêng liêng của người dân, cùng với những biện pháp mất lòng khác đã gây nên nỗi bất bình sâu sắc trong lòng Ama Jhao và dân làng. Ông nói: “Đất là lưng ông bà ta, rừng cây, khe suối là của ông bà ta, sao ta lại chịu bỏ nhà, bỏ buôn đi làm đường cho bọn Ó trắng để chúng giẫm lên lưng ông bà ta, phá phách rừng núi của ông bà ta”. Năm 1890, Ama Jhao tổ chức mai phục một toán quân Pháp trên đường từ Củng Sơn (huyện Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên) tiến lên chiếm Buôn Ma Thuột. Tại Ea Yông, toán quân này đã bị các nghĩa quân Ama Jhao chặn đánh dữ dội. Ông tuyên bố: “Đây là đất của người Rađê, sào huyệt của Ama Jhao, không một ai có quyền đặt chân đến, nếu không có sự mời đón của tù trưởng; các ông phải lui quân, nếu không tức khắc sẽ bị tiêu diệt”. Bất lực và sợ hãi, toán quân Pháp rủ nhau rút chạy.

 

Năm 1901, Ama Jhao dẫn đầu một đoàn các tù trưởng, già làng kéo xuống Phú Yên phản đối việc mở đường, tự tiện sáp nhập đất đai của ngưởi Êđê vào Lào. Sự kiện này làm cho tên Công sứ Phú Yên lúng túng, hứa hẹn hàm hồ cho qua. Những cam kết của người Pháp tỏ ra không đảm bảo, trong khi đó, các cánh quân của họ cũng rục rịch hành động, do vậy, Ama Jhao nhận thấy cần phải tăng cường liên kết với các tù trưởng khác, như Ama Gơm, Ama Hap bộ tộc Êđê Kiăh; nhóm Êđê Mlô do Ma Dak, Ama Jak chỉ huy, đồng thời hưởng ứng các cuộc kháng chiến khác đang nổi lên lúc đó của N’Trang Gưh, Ôi H’Mai và MaDla… tạo thành mạng lưới chống đối rộng khắp cao nguyên Êđê, gây cho giặc Pháp rất nhiều khó khăn. Năm 1903, Ama Jhao tổ chức phục kích một toán lính Pháp ở km 42 đường 21, tiêu diệt hai tên và thu 2 xe bò chở muối. Pháp ra lệnh bao vây khu vực buôn Ea Yông; đồng thời phái một tiểu đoàn bộ binh thuộc phân khu Huế cùng lực lượng bảo an M’Drăk tạo thành mũi bao vây thứ nhất, một tiểu đoàn khác cùng lực lượng bảo an Buôn Ma Thuột tạo thành mũi bao vây thứ hai tấn công khu vực hoạt động của nghĩa quân. Ama Jhao rút sang vùng núi Cư Quie, dự tính tiếp tục kéo dài cuộc kháng chiến. Thực dân Pháp treo thưởng cho bất cứ ai giết hoặc chỉ điểm Ama Jhao. Tháng 1-1905, nhờ có tin mật báo, quân Pháp vây và bắt ông. Chúng tra tấn ông tàn khốc, Ama Jhao dũng cảm mắng giặc rằng: “Dùng hèn kế để bắt ta sao gọi là thắng ta được, điều ấy đâu có gì đáng vẻ vang cho các ngươi. Cứ trả ta về lại núi rừng xem ai thắng ai!”. Ama Jhao hy sinh vào tháng 3-1905.

2. N’Trang Gưh (1845-1914)

N’Trang Gưh tên là Gưh họ H`Đơt, là tù trưởng buôn Cuah Kplang, một buôn của nhóm Êđê Bih khu vực Krông Knô. Tại đây, ông đã kiên cường cùng đồng bào đứng lên kháng chiến trong suốt 14 năm ròng (1900-1914), là một trong những cuộc kháng chiến lớn nhất ở Tây Nguyên thời bấy giờ.


Cái cớ xảy ra cuộc kháng chiến của nhóm Bih do N’Trang Gưh lãnh đạo bắt đầu từ việc người Pháp muốn tìm kiếm một nơi thuận tiện để thiết lập lỵ sở tỉnh Darlac. Ngày 31-1-1899, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Darlac có lỵ sở đóng tại Buôn Đôn do Buorgeios làm Công sứ và xúc tiến các công việc “làm thí điểm trong công cuộc bình định Tây Nguyên”. Thế nhưng Buôn Đôn do những bất lợi của nó về vị trí địa lý, quá xa trung tâm tỉnh, nằm sát khu vực biên giới khiến cho Bourgeois không yên tâm và quyết định dời trụ sở tỉnh lỵ về Buôn Tur thuộc khu vực người Êđê Bih ở hạ lưu sông Krông Ana.


Ngày 1-3-1900, Bourgeois chỉ huy một lực lượng lính khố xanh tiến vào các làng người Bih ở Buôn Tur nhưng không thành. Hai ngày sau, tên này quay lại tấn công buôn Cua Kplang. N’Trang Gưh đã chỉ huy người dân chống trả quyết liệt rồi rút vào rừng chỉnh đốn lực lượng.


Năm 1904, 600 nghĩa quân Bih tập kích đồn Buôn Tur rồi thừa thắng tiến công hạ các đồn Riăng, đồn Buôn Dur, đồn Phơty, đồn Buôn Trinh… Những hoạt động của nghĩa quân N’Trang Gưh ngay sát nách Buôn Ma Thuột khiến cho người Pháp không thể an tâm nhưng cũng không có cách nào đánh bại được chiến thuật du kích lợi hại của nghĩa quân. Vùng hạ lưu Krông Ana trong suốt 13 năm (1901-1913) luôn là khu vực bất khả xâm phạm của đồng bào Bih.


Năm 1914, nhờ có sự chỉ điểm của một tên phản bội, thực dân Pháp bắt được N’Trang Gưh và giết ông lúc ông 69 tuổi.

3. Y Jut (1885-1934)

Y Jut H'Wing hay còn gọi ngắn gọn là Y Jút.  Ông là một nhân sỹ yêu nước người dân tộc Êđê, một người con ưu tú của núi rừng Tây nguyên. Ông sinh năm 1888 (Có tài liệu ghi 1885)  tại Buôn Krăm xã Ea Tiêu huyện Krông Ana. Ông  mất  năm 1934, tên ông hiện được đặt làm tên một con đường phố chợ sầm uất nhất Buôn Ma Thuột từ  ngay trước giải phóng và được giữ nguyên cho đến nay Ngòai ra còn có rất nhiều trường học ở  Đắk Lắk được vinh dự mang tên ông. Vợ ông là  H’ Yih Niê là người ở buôn Păm Lăm – Thành phố Buôn Ma Thuột. Dù ông qua đời từ rất lâu  nhưng tên tuổi của ông vẫn còn lưu lại, sống mãi trong lòng  người dân Đắk Lắk quê hương ông.


Y Jút  là một trong số ít ỏi trí thức người dân tộc thiểu số thời Pháp thuộc. Lúc nhỏ ông  là học sinh Trường Tiểu học Pháp – Êđê Buôn Ma Thuột, sau đó ra Huế học. Là một học sinh xuất sắc nhưng khi  tốt nghiệp ông tình nguyện trở về trường Pháp-Êđê  ở quê hương để dạy chữ  cho đồng bào  mình chứ không làm quan lại để cầu vinh hoa phú quy cho riêng mình. Do rất giỏi tiếng Pháp, Y Jút cùng bạn bè như Y Ut, Y BLul tìm hiểu mẫu tự La tinh và vần Êđê đặt ra bộ chữ viết Êđê ngày nay. Sau đó bộ chữ này được đốc học Angtoamaki và Sabatier tu chỉnh lại vào năm 1920. Bộ chữ sớm được phổ cập rộng rãi trong cộng đồng người Êđê. Đến năm 1935, người Pháp ở Đông Dương chính thức công nhận các bộ chữ này và cho phép phổ cập ở Tây nguyên.


Thời  đó, viên công sứ Pháp được giao quyền cai trị vùng Tây nguyên  là Sabatier. Đây là một tên thực dân khét tiếng tàn bạo và hiểm độc. Hắn một mặt khinh miệt người bản xứ, coi họ như những người mọi rợ, một mặt lại lại  chủ trương “Đất Tây Nguyên của người Tây Nguyên” để ru ngủ người Tây nguyên và coi đó là “nguyên lý chỉ đạo nên cai trị các xứ Mọi”, kiên quyết không cho người lạ mặt vào Đắk Lắk. Sự cấm đóan này làm Tây nguyên như bị tách rời khỏi Việt Nam và trở thành  một vùng lõm nghèo nàn và lạc hậu... tất cả đã  gây ra nhiều sự bất bình trong đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Ông và Y Út bí mật tổ chức lực lượng định ám sát viên Công sứ này nhưng chưa không thành công. Đầu tháng 10-1925, hai ông chuyển sang tổ chức đấu tranh công khai và tập hợp được đông đảo học sinh và giáo viên trường Pháp-Êđê  tham gia biểu tình phản đối Sabatier, gửi thư tố cáo hành vi tội ác của tên này đi khắp nơi. Chính nhờ những lá đơn tố cáo  của Y Jút và  những người cùng chí hướng và  chính  chủ trương “Đất Tây Nguyên của người Tây Nguyên”  của Sabatier cũng không làm hài lòng Chính quốc và các nhà tư bản Pháp đang lăm le muốn nhảy vào khai thác vùng đất trù phú này nên  Toàn quyền Đông Dương và Khâm sứ Trung Kỳ, Tổng Thanh tra Đông Dương đã quyết định buộc  Sabatier phải rời khỏi  Đắk Lắk.


Dưới sự dạy dỗ chỉ bảo của ông, nhiều học trò của ông như Y Wang Mlô, Y Bih Aleo... đã trở thành những người lãnh đạo các phong trào cách mạng. Ngày nay, bộ Từ điển Việt – Êđê, sách giáo khoa chuyên dạy chữ dân tộc Êđê cho chương trình phổ thông cơ sở cấp I  đã được hòan thiện  trong đó có sự đóng góp rất lớn của Thầy giáo Y Jút ngày xưa.

Một số câu nói đã đi vào lịch sử của thầy giáo Y Jút:


Là một người có tinh thần tiến bộ, ham học tập để vươn lên, Y Jut thường hay nói: “Chúng ta phải có chữ của người Êđê, chúng ta cũng cần học tiếng Pháp thật giỏi để người Pháp không dám gọi ta là Mọi” .


Tên Công sứ Darlac lúc này là Sabatier hay tỏ ra khinh miệt người Thượng là “không đủ tư cách mặc quần dài”. Sự kỳ thị của Sabatier đã xúc phạm đến lòng tự hào dân tộc của Y Jut, ông nói: “Thằng rê-đi-răng (résident, chỉ Sabatier) nó không phải là người Êđê, người M’nông hay người Kinh… Tôi làm việc với nó, tôi hiểu lắm. Chúng nó chỉ là những con giun, con sán nằm trong bụng ta, ăn hại ta. Vậy thì chúng ta, những người Êđê, người Kinh, người M’nông phải đoàn kết lại để vươn lên. Chúng ta có đủ trí tuệ và tài năng; không thể để mặc bọn Pháp muốn đè đầu chúng ta thế nào cũng được” .

4. Vua Lửa Ôi Ất

Ông là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa kéo dài 3 năm (1904-1907) của đồng bào Giarai và một bộ phận người Êđê, Bana ở Cheoreo, An Khê.

Năm 1904, hai công ty Davignan và Pari cướp 500ha đất đai của người Giarai, Bana vùng Cheoreo để lập đồn điền, trong đó có đất đai hai làng của Vua Lửa và Vua Nước. Sự việc này đã khiến người Giarai, Êđê bừng bừng nổi giận chống trả.


Tháng 4-1904, tên thực dân Ô-đen-đan được cử đến đàm phán với Vua Lửa Ôi Ất. Vua Lửa giả vờ ưng thuận và hẹn đến ngày 31-5-1904 sẽ tổ chức một buổi tiệc bày tỏ thiện chí hợp tác giữa hai bên. Ngày 7-4-1904, Vua Lửa tổ chức một bữa tiệc mừng Ô-đen-đan, tên này ngỏ ý muốn xem thanh gươm báu của Ôi Ất. Ôi Ất bèn chỉ huy phục binh xông ra giết chết tên này.


Ô-đen-đan bị giết, quân Pháp liền điều động ba cánh quân khác lên đàn áp người Giarai. Ôi Ất lùi về vùng rừng già Ayun. Tháng 1-1905, một đại đội lĩnh khố xanh khác do tên Ranard chỉ huy, từ Chợ Đồn (An Khê) tiến lên càn quét vùng Cheoreo nhưng bị Ôi Ất đánh bại. Nhân đà đó,Vua Lửa kêu gọi các tù trưởng khác khởi nghĩa và nhanh chóng được hưởng ứng.


Ngày 23-1-1907, tên Fort cùng Pari tấn công vào đồn điền ĐakFoppau (Cheoreo), nhằm vào làng Bana Kon Klott vốn đã theo ủng hộ Vua Lửa. Tại đây, chúng bị nghĩa quân đón sẵn và tấn công dữ dội. 14 tên bỏ mạng, Pari tự sát.


Đến cuối năm 1907, trong một cuộc hành quân càn quét vào Cheoreo, quân Pháp bắt được Vua Lửa, cuộc khởi nghĩa của người Giarai kết thúc.

5. N’Trang Lơng(1870-1935)

Cuộc kháng chiến của N’Trang Lơng (1911-1936) diễn ra trên một địa bàn khá rộng, gần như toàn bộ vùng cao nguyên nam Đông Dương, từ bên này cao nguyên Lang Biang của người M’nông Rlăm sang bên kia tả ngạn sông Mekong của người M’nông Khơme; từ dưới chân cao nguyên Pleiku của người Giarai xuống đến cao nguyên Di Linh vùng người Mạ. Khu vực hoạt động chủ yếu của nghĩa quân là vùng cao nguyên M’nông nằm vắt qua cả ba xứ Trung kỳ, Nam kỳ và Campuchia. Đây là vùng có truyền thống đấu tranh từ lâu đời của người M’nông, Xtiêng trước sự đe doạ của các quốc gia hùng mạnh hơn.


N’Trang Lơng tên thật là Lơng, sinh khoảng năm 1870 tại Buôn Bupar, một làng M’nông Biệt dưới chân núi Nam Drôn thuộc khu vực suối DakNha, phía bắc cao nguyên M’nông. Thưở nhỏ, N’Trang Lơng (lúc này ông sống ở phía đông Srê Khơtum) được miêu tả là cậu bé nhanh nhẹn, tháo vát, hay giúp đỡ người khác và dũng cảm. Người trong làng yêu quý cậu cũng như em trai cậu là Rơ Leng Ong. Khi lớn lên, được nghe kể về tấm gương chiến đấu của các tù trưởng Ama Jhao, N’Trang Gưh, N’Trang Lơng tỏ ra rất khâm phục.


Từ năm 1909, sau sự đầu hàng của Khunjunob, Pháp bắt đầu tung những đơn vị, những phái đoàn lên thám thính vùng cao nguyên M’nông. Tên Henri Maitre đã cho chiếm đóng và xây dựng đồn ở Buôn Bu Poustra và đã tấn công làng Bu Nơtrang của N’Trang Lơng, hãm hại gia đình ông.


Giai đoạn 1 của cuộc kháng chiến (1912-1915), N’Trang Lơng quyết định dùng 150 nghĩa quân tấn công triệt hạ đồn Bu Poustra, mở màn cuộc kháng chiến dài 25 năm của đồng bào M’nông.


Chiến thắng của N’Trang Lơng khiến Henri Maitre tức giận, từ 1912-1914 Pháp đã tổ chức nhiều cuộc vây ráp lùng bắt và treo thưởng N’Trang Lơng nhưng đều thất bại. Toàn thể dân M’nông kiên quyết theo N’Trang Lơng đánh Pháp.


Ngày 29-7-1914, Rơ Ong Leng giả hàng mời Henri Maitre đến làng Bunor tiếp nhận sự đầu thú của 400 nghĩa quân. Henri Maitre tưởng thật, đi cùng một nhóm lính đến thì rơi vào bẫy và bị N’Trang Lơng kết liễu. Từ đấy, nghĩa quân liên tiếp đánh nhiều trận và tiêu diệt được nhiều tên thực dân gian ác khác như trận BuKlir và Bu Thông (1914), trận Srê Lovi (1922).


Giai đoạn 2 của cuộc kháng chiến (1930-1935). Năm 1928 Pháp đẩy mạnh việc làm con đường 14, đoạn từ Palklei-Srey Khơtum do tên Gatille phụ trách. Ngày 26-1-1931, N’Trang Lơng cho quân phục giết chết tên này khiến Toàn quyền Đông Dương lo lắng. Một phong trào kháng Pháp dấy lên mạnh mẽ toàn miền nam cao nguyên.


Cuối tháng 2, đầu tháng 3-1935, tên thiếu tá Nyo chỉ huy lực lượng quân Pháp từ 4 hướng tấn công căn cứ Nam Nung có sự yểm trợ của máy bay. Nghĩa quân được báo trước và đã giáng cho quân Pháp những đòn phủ đầu. Nhưng trong một lần chiến đầu, N’Trang Lơng bị trúng đạn và bị bắt cùng với bộ chỉ huy cuộc kháng chiến. Ông mất ngày 23-5-1935, thọ khoảng 65 tuổi.

6. SămBrăm


Cho mãi đến khi cách mạng tháng Tám thành công thì ảnh hưởng của những người cộng sản đối với vùng người Thượng vẫn còn khá hạn chế. Trong hoàn cảnh đó, bên cạnh những cuộc kháng chiến đã đề cập ở trên thì trên Tây Nguyên vào những năm 1935-1939 đã xuất hiện một phong trào kháng chiến rộng lớn mang tính chất thần bí, thủ lĩnh đức tin của phong trào này là SămBrăm.


SămBrăm sinh khoảng những năm 1870 tại Buôn Mang Chàm vùng núi phía Tây Phú Yên giáp Đăklac. Ông vốn là một thầy thuốc và một thầy cúng mà tài phép của ông được kể lại là: “đôi khi biến thành rắn và sống dưới biển, đôi lúc trở thành người, sống trong rừng. Sự di chuyển của ông như gió và mưa…”. Do những hành động mang tính chất chống đối của mình mà năm 1936 ông bị bắt giam và năm 1938 bị tuyên án 10 năm tù, phạt 500 đồng. Mặc dù vậy, phong trào Nước Xu lại phát triển mạnh mẽ vào những năm 1935-1939.


Trước khi bị bắt, nắm rõ đặc điểm mê tín của đồng bào nên ông tự xưng mình là “Thánh sống”, sinh ra để cứu nhân loại khỏi thảm hoạ của cơn đại hồng thuỷ sắp diễn ra. Chỉ những ai tham gia cúng tế và sử dụng nước thánh thì mới có thể tai qua nạn khỏi. Người ta tin rằng, SămBrăm dùng nước rửa mặt, nước chảy xuống râu. Ai mà hứng nước ấy về thoa vào chỗ bị đau thì sẽ chữa được mọi bệnh tật. Những người đến xin nước sẽ phải tế lễ và cúng những đồng xu đỏ cho thầy tế (cho nên còn được gọi là phong trào Nước xu).

0 comments:

Đăng nhận xét