6/08/2024

TÂY DU KÝ THEO GÓC NHÌN KHÁC


 

Bài này hay quá phải đọc mấy lần mới sướng các bạn ạ. 


Câu chuyện thần thoại sang Tây Thiên thỉnh kinh của Tây Du Ký thực ra là quá trình chinh phục chính mình của mỗi người.


Năm thầy trò Đường Tăng thực chất chỉ là một. 


Đường Tam Tạng cùng ba đồ đệ và ngựa Bạch Long Mã , tuy mỗi người lại có tính cách và xuất thân khác nhau nhưng cùng kiên định một mục tiêu lấy được chân kinh.


Nếu nhìn sâu vào từng vai trò của nhân vật trong hành trình tới Tây Thiên, không khó để nhận ra cả năm nhân vật này thực ra đều đại diện cho một người.


Trong đó, Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm, Đường Tăng là thân thể, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa Tăng là bản tính, còn Bạch Long Mã là ý chí của con người.


Ngay trong nhưng chi tiết nhỏ, tác giả đã khéo léo chỉ ra điều này. Tôn Ngộ Không khi tầm sư học đạo trở thành đệ tử của Bồ Đề Tổ Sư trên núi Linh Đài Phương Thốn, động Tà Nguyệt Tam Tinh. Tà Nguyệt Tam Tinh có nghĩa là trăng khuyết và ba vì sao, chính là chữ "Tâm" trong chữ Hán.


Vậy nên, Tôn Ngộ Không là đại diện cho chữ Tâm của con người. Vì cái Tâm - Tôn Ngộ Không luôn lung lay chưa giác ngộ nên Quan Âm Bồ Tát mới tặng cho Đường Tăng chiếc vòng kim cô và bài chú để khắc chế được Tâm, giúp Tâm tĩnh không bị xao động.


Trong kinh phật xưa có viết "tâm có 72 tướng", 72 tướng này tương ứng với 72 phép biến hóa của Tôn Ngộ Không cũng là chỉ tâm của con người đời thiên biến vạn hóa, có hỉ nộ ái ố đa dạng nhiều tâm trạng thái khác nhau.


Ngộ Không “tâm” cậy mình có 72 phép thiên biến vạn hoá dám đại náo thiên cung quậy phá gây nghiệp khắp nơi nên đã bị đè giam cầm 500 năm dưới núi Ngũ Hành Sơn.


Ngũ Hành Sơn ám chỉ ngũ là 5 màn che của nghiệp lực khiến cho tâm bị mê mờ vô minh đó là “sắc - thọ - tưởng - hành - thức”. 


Và cũng là ám chỉ ngũ dục là 5 thứ dục lạc khiến cho loài người bị tham đắm si mê là “tài - sắc -  danh - thực - thuỳ”. 


Và cũng là ám chỉ ngũ độc trong tâm con người là “tham - sân - si - mạn - nghi”


Bạch Long Mã là tượng trưng cho ý chí . Ý chí của con người giống như loài ngựa hoang, chỉ khi có được mục tiêu lấy chân kinh mới coi là được thuần phục.


Ngộ Không thu phục Tiểu Bạch Long, cũng chính là Tâm đã thu phục được Ý, tâm ý đã hòa hợp. Chỉ cần tâm ý cùng một lòng kiên định thì không có khó khăn nào không thể vượt qua, Tây Thiên dù xa đến mấy cũng có thể tới được.


Về sau, Đường Tăng cùng Tôn Ngộ Không lại thu phục được thêm Bát Giới và Sa Tăng, nghĩa là Thân, Tâm, Tình, Tính, Ý của con người đều đã hợp nhất. 


Hành trình hàng yêu diệt quái của thầy trò Đường Tăng  trên suốt chặng đường sang Tây Thiên cũng chính là con người đang trừ bỏ đi tính xấu tham sân si mạn nghi chấp kiến trong mình để tu thành chính quả.


Lấy chân kinh cũng chính là tu tâm dưỡng tính. 


Cân Đẩu Vân của Tôn Ngộ Không là phép thần thông chỉ bay vù một cái là đi được 10 vạn 8 nghìn dặm. 10 vạn 8 nghìn dặm cũng vừa khéo bằng con đường từ Đông thổ Đại Đường đến Linh Sơn.


Về bản chất, Tôn Ngộ Không chỉ bước một bước là tới được Linh Sơn. Điều này ngụ ý Linh Sơn chẳng ở đâu xa, chân kinh ở ngay chính trong tâm ta. 


Thực ra trong mỗi người đều có sẵn tính thiện, chỉ cần nghiệm ra điều này thì Linh Sơn xa xôi cũng gần ngay trước mắt.


Nhưng tâm lại cần phải trải qua biết bao nhiêu kiếp nạn mới có thể đạt được cảnh giới thành Phật “giác ngộ”. 


Trong suốt hành trình sang Tây Thiên, trước khi Ngộ Không một mình đi xin cơm chay thường vẽ một vòng tròn lớn trên mặt đất để bảo vệ Đường Tăng. 


Đây chính là giới hạn mà Tâm đặt cho con người, nhưng thân thể của con người (Đường Tăng) lại thường hay bị dục vọng và tình cảm (Trư Bát Giới) dẫn dụ ra ngoài giới hạn đó. 


Còn tính cách (Sa Tăng) con người thì thường bị động, ba phải, gió chiều nào theo chiều đó, ai bảo gì cũng nghe. Tình cảm dục vọng dụ là tính cách cũng theo luôn ra khỏi giới hạn cùng thân thể. 


Và mỗi khi bước ra khỏi giới hạn ấy Đường Tăng liền gặp phải các yêu ma, tức là thân thể nhiễm mắc phải các tính xấu “nghiệp”. 


Khi này, Trư Bát Giới “tình cảm” hay Sa Tăng “tính cách” dù giỏi võ nghệ cũng không làm được gì, chỉ có Tôn Ngộ Không “tâm” mới là người có thể giải cứu cho cả bốn thầy trò.


Điều này chứng tỏ chỉ có “Tâm” mới có thể hàng phục được ma quỷ - tham sân si….. mà thôi. Còn tính, tình, thân, ý là không thể làm được. 


Vì chỉ có tâm mới có thể nhìn thấy được toàn bộ sự thật mà mắt thường không thể nhìn thấy. Và chỉ có tâm mới có thể ngộ ra được chân lý đưa tất cả đi lấy được chân kinh. 


Cuối cùng khi tới được Tây Thiên, Phật Tổ cho nhóm thầy trò Đường Tăng kinh không chữ. Bởi chính những khổ nạn đã trải qua, những ma tính đã được hàng phục mới là chân kinh. Chân kinh chính là trên con đường 81 kiếp nạn hàng phục tham sân si chứ chân kinh không phải là chữ nằm trên giấy. 


Con người, sau khi trải qua tất cả khó khăn, khổ cực trên thế gian, mới chiêm nghiệm ra được chân lý của cuộc đời, không cần đi đâu xa chỉ cần tự tu tâm, thân, tình, tính, ý niệm là có thể thành Phật.


Mỗi yêu quái là một phép ẩn dụ. 


Mỗi một yêu quái trên đường sang Tây Thiên mà thầy trò Đường Tăng thu phục đều là ẩn dụ của những tính xấu tồn tại trong mỗi người. Mỗi một yêu quái là đại diện cho những cám dỗ thường ngày đang trói buộc con người.


Hồng Hài Nhi ở Hỏa Diệm Sơn tượng trưng cho ngọn lửa thù hận. Hồng Hài Nhi phóng Tam Muội Chân Hỏa “lửa sân trong tâm - nước bình thường không thể dập tắt được - chỉ có nước cam lồ là tình yêu thương bao dung của Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát mới dập tắt được lửa sân”. 


Tam muội chân hoả - lửa sân đã thiêu cháy Tôn Ngộ Không mù cả 2 mắt ý nghĩa là ngụ ý rằng một người luôn sống trong thù hận thì cuối cùng cũng chỉ làm tổn thương cái tâm của mình và ngọn lửa đó như màn che khiến tâm bị mù không còn thấy được rõ sự thật nữa. 


Ba hình tượng biến hoá của Bạch Cốt Tinh lần lượt đại biểu cho “Tình Cha Con - Tình Mẹ Con - Tình Vợ Chồng – Ái Dục Tình” của con người. 


Ngộ Không tiêu diệt cả ba hình dạng của yêu quái, ý nói rằng trong cuộc đời chúng ta nhất định phải khống chế được tình, ái, dục, không thể để chúng khống chế lại tâm mình.


Ngoài ra, Bạch Cốt Tinh cũng tượng trưng cho sự phàm tục của con người. Thân thể có thể khơi dậy bản năng dục vọng, vậy nên Ngộ Không bất hòa với Trư Bát Giới mới bắt đầu từ đây. Và con người có thể bị đánh mất cái tâm, vì vậy Đường Tăng đã đuổi Ngộ Không đi.


Lần thứ nhất, Bạch Cốt Tinh hóa thành một cô thôn nữ đi đưa cơm cho chồng “tình cảm vợ chồng”, bị Ngộ Không nhận ra và đánh chết. Thế là Đường Tăng hiểu lầm niệm chú trừng phạt Ngộ Không đau đớn. 


Lần thứ hai, nó biến thành một bà lão, dùng “tình cảm mẹ con” để làm Đường Tăng động lòng, Tôn Ngộ Không với mắt Thần vẫn nhận ra chân tướng và đánh chết và bị Đường Tăng niệm chú vòng kim cô siết chặt đầu đau đớn giãy dụa. 


Sau đó Đường Tăng đuổi Ngộ Không đi nhưng nhờ có mọi người hết lòng cầu xin và nhớ tới lời hứa với Phật Bà Quan Thế Âm nên giữ lại. 


Cuối cùng, Bạch Cốt Tinh hoá thành ông lão tay cầm tràng hạt miệng tụng kinh, lại dùng “tình cảm bố con”, “vợ chồng già” để làm lay động lòng người. 


Đến lúc này, chánh niệm của Đường Tăng đã bị mê muội hoàn toàn. Sau khi niệm chú kim cô phạt Ngộ Không sống dở chết dở thì đã quyết đuổi Ngộ Không đi, viết giấy tuyệt tình cắt đứt tình thân từ mặt vĩnh viễn không gặp lại. Thế là kế hoạch của Bạch Cốt Tinh đã thành công. 


Người đã có gia đình thì dính mắc kẹt trong tình cảm vợ chồng, mẹ con, bố con, anh chị em. Người chưa kết hôn thì mê lụy say đắm trong tình yêu nam nữ dục ái. 


Ở đây, không phải nói là chúng ta không được yêu thương người khác, mà là không nên bị các chủng dạng tình cảm, cảm xúc của tình ái dục lạc bản thân lôi kéo đến mức mê mờ lý trí, không phân biệt được thiện ác tốt xấu, làm ra những việc sai lầm, trái đạo lý. Bản chất vấn đề chính là chúng ta chưa thể thoát khỏi sự mê hoặc của 2 chữ “tình cảm”. 


Con người là loài nghiện ngập chữ “tình”, cả đời từ khi sinh ra cho tới khi chết vẫn cứ si mê vì một chữ “tình”. Bạch Cốt Tinh chính là một con yêu quái, lợi dụng sự tham đắm tình cảm của con người để lừa và ăn thịt họ. 


Con người cả đời đều vì “tình” mà rơi vào bẫy của ma tâm ma tính, bị trói buộc bởi chữ “tình”, tạo nghiệp cũng vì tình, đoạ vào sáu nẻo luân hồi cũng liên quan đến nó, chỉ đến khi giác ngộ chân lý tu thành Phật thì chữ “tình” mới hoàn toàn triệt tiêu. 


Thần Thánh Phật không có “tình”, chỉ có từ bi hỷ xả, là một trạng thái tâm tốt đẹp và vĩ đại và không bị dính mắc trói buộc và không tạo nghiệp. 


Vậy nên hãy xem lại bản thân nếu bạn còn đang dính mắc trói buộc vào chữ “tình” thì bạn sẽ còn bị ma tâm ma tính lừa gạt dẫn dắt đi gây nghiệp nhiều và còn đoạ và luân hồi tiếp. 


Sau chữ “tình” thì là đến chữ “tiền”. 


Kim Giác và Ngân Giác vốn là 2 đồng tử coi lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, trốn xuống trần thế rồi trở thành yêu quái tại núi Bình Đỉnh, động Liên Hoa.


Khi thầy trò Đường Tăng đi ngang qua địa bàn của chúng, Kim Giác và Ngân Giác đã dùng sợi dây thừng trói chặt Tôn Ngộ Không, sau đó nhốt Tôn Ngộ Không vào hồ lô. Khiến Ngộ Không suýt chết không thể nào chống trả được bọn chúng. 


Kim Ngân theo tiếng Hán là “tiền bạc”. Vậy nên Kim Giác và Ngân Giác là tượng trưng cho sức mê hoặc của “đồng tiền”. Tiền bạc có sức mạnh trói chặt tâm hồn khiến con người ta khó lòng mà thoát ra được.


Bảy con yêu tinh nhện mà thầy trò Đường Tăng gặp phải là đại diện cho thất tình lục dục của con người. Thất tình lục dục cũng giống như tơ nhện giăng lên trùng trùng lớp lớp trong cuộc sống hàng ngày có thể bủa vây con người khó mà tránh khỏi được. 


Trong Phật giáo, thất tình là từ dùng để chỉ trạng thái tâm lý liên quan đến cảm xúc gồm: Hỷ ứng với mừng, nộ là giận, ai là buồn, lạc – vui, ái – thương, ố – ghét, dục ứng với tham muốn, cụ thể như sau: 


Hỷ: Là từ dùng để chỉ cảm xúc hạnh phúc, vui mừng được thể hiện qua ánh mắt, nụ cười, nét mặt của bạn. Cảm xúc này xuất hiện khi chúng ta có được điều mình muốn, đạt được thành công như ý…


Nộ: Đây là cảm xúc tức giận, bực bội khi cảm thấy không vừa lòng điều gì đó. Nếu không đủ sáng suốt, nộ có thể dẫn đến những hành động bột phát.


Ai: Đây là cảm xúc đau khổ, buồn rầu khi chúng ta có chuyện xảy ra ngoài ý muốn. Trạng thái này rất dễ nhận biết, thể hiện rõ qua cách ứng xử và hành động, nét mặt mỗi người.


Lạc: Đây là cảm xúc vui mừng nhưng nhẹ nhàng hơn hỷ rất nhiều, thường là niềm vui nhất thời và không kéo dài lâu.


Ái: Đây là tình cảm đối với một sự vật hay đối tượng nào đó, có thể hiểu là sự nhân ái của chúng ta đối với người xung quanh.


Ố: Đây là trạng thái bực tức, ghét những sự vật hay đối tượng nào đó mà bạn cảm thấy không vừa lòng. Cảm xúc này thường sinh ra bởi sự đố kỵ và không tự tin.


Dục: Đây là cảm xúc ham muốn, khát vọng một điều gì đó mà bạn muốn có nhưng chưa sở hữu, đó có thể là tiền tài, quyền lực…


Lục Dục chỉ 6 ham muốn thể xác với đối tượng nào đó, cụ thể như sau:


- Thứ nhất, đối với “thân dục” ở người khác giới:


Sắc dục: Sự mê mẩn về nét đẹp của người khác hoặc sự vật khiến bạn lung lay ý chí, hiển đơn giản là ham muốn về vẻ bên ngoài.


Hình mạo dục: Cũng gần giống sắc dục, tuy nhiên hình mạo dục là sự mê mẩn hình thể của người khác giới.


Oai nghi dục: Đây là động tác và cử chỉ của con người, hiểu đơn giản là sự thu hút về cử chỉ, hành động của người khác với bản thân.


Ngôn ngữ âm thanh dục: Nhiều người tuy không đẹp nhưng vẫn thu hút bởi họ có âm thanh quyến rũ, giai điệu hay, êm tai… đây gọi là ngôn ngữ âm thanh dục.


Tế hoạt dục: Đây là cảm xúc khi bạn và người khác có sự va chạm vào nhau, dẫn đến sự xúc chạm, tạo ra cảm giác say đắm và lôi cuốn.


Nhân tướng dục: “Nhân tướng” nói về tướng mạo chứ không liên quan đến tính cách, đó có thể là nét sang trọng, quý phái hoặc nét đẹp hiền hậu,… có thể thu hút người khác.


- Thứ hai là lục dục ở 6 đối tượng bên ngoài cảnh trần. 


Nhãn dục: Trạng thái này thể hiện sự yêu mến thích thú về cái nhìn, hoặc có thể hiểu là hình sắc bên ngoài làm cho chúng ta say đắm.


Nhĩ dục: Có nghĩa là sự yêu mến/tình cảm vướng mắc do âm thanh gây ra. Âm thanh ở đây không chỉ là tiếng nói từ người khác phái mà còn có thể là những tiếng động chúng ta nghe thấy.


Tỷ dục: Đây là sự sự đam mê đối với một hoặc nhiều mùi vị khác nhau, khiến con người ta khó quên.


Thiệt dục: Là sự đam mê đối với những món ăn, mỗi người đều có một sở thích riêng về mùi vị và sau đó bị hương vị này thôi thúc (thuộc về vị giác).


Thân dục: Đây không chỉ là cảm xúc giữa nam và nữ mà là tất cả mọi thứ làm bản thân thích thú.


Ý dục: Đây là những hình ảnh được các giác quan thu nhận và quan tâm, thuộc phạm trù suy nghĩ và ý thức.


Một khi con người đã sinh thất tình lục dục thì sẽ bị chúng trói buộc khó lòng mà giác ngộ giải thoát. Nếu tâm sáng giác ngộ chân lý sẽ nhìn thấu mọi sự thật những cạm bẫy này và vượt qua.


Trong tập phim Tôn Hành Giả Giả Hành Tôn, Tôn Ngộ Không “thiện tâm” một lòng hướng Phật đã đánh bại được Tôn Ngộ Không giả “ác tâm”. Hai Mỹ Hầu Vương là hai loại ý chí, hai loại tư tưởng “thiện - ác” của bản thân trong con người hàng ngày vẫn tranh đấu với nhau dành quyền ra quyết định gây nghiệp hay tạo phước, tham sân si hay là từ bi hỷ xả. 


Nếu đã có "hai ý niệm thiện - ác cùng khởi lên" thì phải loại trừ ngay tà ác ý niệm. Chỉ khi con người chuyên tâm nhất trí mới có thể đạt được thành công. Vậy nên Tôn Ngộ Không giả bị đánh chết, thầy trò mới có thể tiếp tục lên đường thỉnh kinh được. 


#minhchannhu

0 comments:

Đăng nhận xét