1/ Căn cứ vào tính chất của khoản vay, có các loại lãi suất phổ
biến sau:
- Lãi suất tiền gửi ngân hàng là lãi suất ngân hàng trả cho các
khoản tiền gửi vào ngân hàng.
Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào
loại tiền gửi (không kỳ hạn, tiết kiệm...), thời hạn gửi và quy mô tiền gửi.
- Lãi suất cho vay ngân hàng là lãi suất mà người đi vay phải
trả cho ngân hàng khi đi vay từ ngân hàng. Lãi suất tín dụng ngân hàng có nhiều
mức tùy theo loại hình vay (vay kinh doanh, vay trả góp, vay qua thẻ tín
dụng¼), theo mức độ quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng và tùy thuộc vào sự
thỏa thuận giữa hai bên.
- Lãi suất chiết khấu ngân hàng là loại lãi suất áp dụng khi
ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy
tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ
% trên mệnh giá của tờ thương phiếu, và được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa
tiền vay cho khách hàng. Như vậy, lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân
hàng chứ không trả sau như lãi suất tín dụng thông thường.
- Lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng trung ương đối với các
ngân hàng thương mại khi cho vay dưới hình thức tái chiết khấu các thương phiếu
hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này.
Hoạt động tái chiết khấu cung ứng nguồn vốn cho các ngân hàng
thương mại nên lãi suất tái chiết khấu thường thấp hơn lãi suất chiết khấu. Tuy
nhiên, trong trường hợp ngân hàng trung ương muốn hạn chế khả năng mở rộng của
tín dụng để đối phó với lạm phát thì lãi suất tái chiết khấu có thể lớn hơn lãi
suất chiết khấu của các ngân hàng thương mại.
- Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng
cho nhau khi vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được
hình thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu
sự chi phối bởi lãi suất mà ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian
vay. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường
mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung
gian.
- Lãi suất cơ bản là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ
sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình.
Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy từng nước. Nó có
thể do ngân hàng trung ương ấn định (như ở Nhật- là mức lãi suất cho vay thấp
nhất); hoặc có thể do bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình
hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (ở Anh, Mỹ, Úc- đó là mức lãi suất áp dụng
cho khách hàng có mức rủi ro thấp nhất); hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản
của một số ngân hàng đứng đầu rồi cộng trừ biên độ dao động theo một tỷ lệ phần
trăm nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình (Malaysia); một số nước lại
sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất cơ bản (Singapore, Pháp). Ở Việt
Nam theo luật pháp, Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố lãi suất cơ bản. Các
ngân hàng thương mại ấn định mức lãi suất đi vay và cho vay dựa trên mức lãi
suất cơ bản đó và phù hợp với điều kinh doanh của mình.
2/ Căn cứ vào giá trị thực của tiền lãi thu được
- Lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate) là lãi suất được
tính theo giá trị danh nghĩa, không kể đến tác động của lạm phát. Lãi suất danh
nghĩa thường được công bố chính thức trên hợp đồng tín dụng.
- Lãi suất thực tế (real interest rate) là lãi suất được điều
chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế có mối liên hệ được thể
hiện trong phương trình sau:
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Vì vậy, lãi suất thực tế còn được định nghĩa là lãi suất danh
nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát. Người ta có thể tính trước lãi suất thực tế dựa
trên lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát dự tính. Hoặc có thể điều chỉnh lãi
suất thực tế (tính sau) theo lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát thực tế.
Lãi suất thực tế cần phải được tính đến để loại trừ hết ảnh
hưởng trong mức giá và do đó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay
tiền. Lãi suất thực tế là lãi suất quan trọng nhất cho các quyết định kinh tế,
nó là cái mà các nhà kinh tế dùng để tính toán lượng thu nhập hoặc các ích lợi
thực tế của một quyết định kinh tế.
Để thấy rõ hơn sự khác nhau giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất
thực tế ta nghiên cứu ví dụ sau: Giả sử một khách hàng đến ngân hàng vay một
khoản tiền để đầu tư kinh doanh với lãi suất 7.5% một năm. Theo dự tính ban
đầu, khách hàng này cho rằng mức giá sẽ không đổi trong thời gian một năm tới.
Vì là người đi vay nên cuối năm anh ta sẽ phải trả 7,5% lãi suất, tức là anh ta
mất đi cơ hội mua một món hàng có giá trị bằng 7.5% món vay. Lúc này, lãi suất
thực tế mà anh ta phải trả theo qui đổi của lượng hàng hóa và dịch vụ là 7.5%,
tức là: Ir = 7.5% - 0% = 7.5%.
Giả sử tỷ lệ lạm phát tăng lên 5% và lãi suất ngân hàng cho vay
tăng lên mức 10% một năm thì lãi suất thực tế mà khách hàng phải trả theo qui
đổi của lượng hàng hóa và dịch vụ là: Ir = 10% - 5% = 5%.
Nếu khách hàng này là người nắm bắt được lãi suất thực tế thì
anh ta sẽ quyết định vẫn tiếp tục vay tiền để đầu tư vào dự án của mình mặc dù
lúc này lãi suất tăng lên 10% so với 7.5% như ban đầu. Bởi vì chi phí thực mà
anh ta phải trả cho ngân hàng là thấp hơn so với dự tính ban đầu.
Như vậy, có thể nói rằng lãi suất thực tế là chỉ dẫn tốt hơn cho
người dân khi quyết định gửi tiền hay vay tiền từ ngân hàng, để đầu tư vào
chứng khoán công ty hay mua trái phiếu chính phủ. Nếu chỉ nhìn vào lãi suất
danh nghĩa có thể có những đánh giá sai về thị trường tín dụng. Bởi vì lãi suất
danh nghĩa cao không có nghĩa là thị trường tín dụng đang rất căng thẳng do chi
phí đi vay quá cao. Nếu tỷ lệ lạm phát cao thì chi phí đi vay thực ra rất thấp.
3/ Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất
- Lãi suất cố định là loại lãi suất được quy định cố định trong
suốt thời hạn vay. Nó có ưu điểm là số tiền lãi được cố định và biết trước.
Nhưng nhược điểm là bị ràng buộc vào một mức lãi nhất định trong một khoảng
thời gian, mặc dù lãi suất thị trường đã thay đổi.
- Lãi suất thả nổi là lãi suất được quy định là có thể lên xuống
theo lãi suất thị trường trong thời hạn tín dụng. Lãi suất thả nổi vừa chứa
đựng rủi ro lẫn lợi nhuận. Khi lãi suất tăng lên, người đi vay bị thiệt so với
trường hợp xác định lãi suất cố định, người cho vay được lợi. Khi lãi suất giảm
xuống, người cho vay bị thiệt, người đi vay được lợi.
4/ Căn cứ vào loại tiền cho vay
- Lãi suất nội tệ là lãi suất cho vay và đi vay đồng nội tệ
- Lãi suất ngoại tệ là lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ
Mối liên hệ giữa hai loại lãi suất này được thể hiện qua phương
trình: rd = rf + ΔE
Trong đó: rd là lãi suất nội tệ, rf là lãi suất ngoại tệ, ΔE là
mức tăng giá dự tính của tỷ giá hối đoái (hay đồng ngoại tệ).
Phương trình này là biểu hiện của Học thuyết ngang giá sức mua.
Lập luận cơ bản là lợi tức dự tính của việc nắm giữ nội tệ phải bằng lợi tức dự
tính của việc nắm giữ ngoại tệ. Nếu tồn tại chênh lệch về mức lợi tức dự tính,
sẽ xuất hiện sự di chuyển vốn từ loại tiền gửi này sang loại tiền gửi kia để
hưởng được mức lợi tức cao hơn. Kết quả của sự di chuyển này là lợi tức dự tính
của các khoản tiền gửi sẽ được điều chỉnh lại dưới ảnh hưởng của quan hệ cung
cầu và sự cân bằng sẽ được thiết lập lại. Vì lợi tức dự tính của việc nắm giữ
các khoản tiền bằng nội tệ là lãi suất nội tệ, còn mức lợi tức dự tính của việc
nắm giữ các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ là lãi suất ngoại tệ cộng với mức tăng
giá dự tính của đồng ngoại tệ, nên chúng ta có phương trình trên.
Tuy nhiên, phương trình trên chỉ tồn tại trong điều kiện chế độ
tự do ngoại hối, tức là được tự do chuyển đổi từ đồng nội tệ sang ngoại tệ và
ngược lại. Nếu quản lý ngoại hối chặt chẽ thì sẽ vẫn tồn tại chênh lệch vì vốn
không chuyển đổi giữa hai loại tiền được.
5/ Căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế
- Lãi suất trong nước hay lãi suất quốc gia (national interest
rate) là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng trong nước.
- Lãi suất quốc tế (international interest rate) là lãi suất áp
dụng với các hợp đồng tín dụng quốc tế. Lãi suất quốc tế thường thấy LIBOR
(London Interbank Offered Rate) là lãi suất quốc tế lấy trên thị trường liên
ngân hàng London. Ngoài ra còn có các lãi suất quốc tế khác như NIBOR (trên thị
trường NewYork), TIBOR (trên thị trường Tokyo), SIBOR (trên thị trường
Singapore).
Nếu các hợp đồng tín dụng quốc tế áp dụng mức lãi suất quốc gia
thì lãi suất quốc gia trở thành lãi suất quốc tế.
Lãi suất quốc gia thường chịu ảnh hưởng của lãi suất quốc tế.
Nếu thị trường vốn quốc gia tự do thì lãi suất quốc gia sẽ lên xuống theo lãi
suất quốc tế.
Theo: Kien thuc kinh te
0 comments:
Đăng nhận xét